KINH THÀNH HUẾ
Kinh thành Huế được xây dựng gần 30 năm (từ 1803 đến 1832), là một dãy thành lũy dài cao 6,60m, dày 21m, với chu vi gần 9.000m. Trên mặt thành ngày xưa có tới 24 pháo đài. Bên ngoài, dọc theo bờ thành có hào sâu bảo vệ. Kinh thành liên lạc với bên ngoài qua 8 cửa trổ theo 8 hướng: Chính Ðông, Chính Tây, Chính Nam, Chính Bắc, Tây Bắc, Tây Nam, Ðông Bắc, Ðông Nam.
Ngoài ra hai bên Kỳ Ðài còn có hai cửa Thể Nhơn và Quảng Ðức. Ngoài ra còn có hai cửa bằng đường thủy ở hai đầu sông Ngự Hà là Ðông Thành Thủy Quan và Tây Thành Thủy Quan. Phía Hoàng Thành ở góc đông bắc có một thành nhỏ, thời Gia Long gọi là Thái Bình, đến thời Minh Mạng đổi thành Trấn Bình Ðài có chu vi gần 1km, bên ngoài có hào rộng ăn thông với hào của Hoàng Thành.
Theo nguyên tắc địa lý phong thủy của Ðông Phương và thuyết âm dương - ngũ hành của Dịch học. Kinh thành quay mặt về hướng Nam, dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng 2 hòn đảo nhỏ trên sông Hương (Cồn Hến - Cồn Dã Viên) làm rồng chầu hổ phục (Tả Thanh Long - Hữu Bạch Hổ) để bảo vệ đế đô. Dòng Sông Hương chảy ngang trước mặt dùng làm Minh Ðường. Bốn mặt kinh thành đều được bao bọc bởi hệ thống sông ngòi gọi là sông Hộ Thành.
Ở trong lòng Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành được gọi chung là Ðại Nội. Hoàng Thành dùng để bảo vệ khu vực các cơ quan lễ nghi, chính trị quan trọng nhất của triều đình và các điện thờ. Tử Cấm thành bảo vệ nơi làm việc, ăn ở và sinh họat hàng ngày của nhà vua và gia đình...
Ðược xây dựng từ 1804-1833, Ðại Nội có mặt bằng xây dựng theo hình gần vuông, mặt trước và mặt sau dài 622m, mặt trái và phải 604m. Thành xung quanh xây bằng gạch (cao 4,16m, dày 1,04m), bên ngoài có hệ thống hộ thành hào, gọi là Kim Thủy Hồ, để bảo vệ thành. Mỗi mặt trổ một cửa để ra vào: Ngọ Môn (trước), Hòa Bình (sau), Hiển Nhơn (trái), Chương Ðức (phải). Cửa chính của Ngọ Môn chỉ dành cho vua đi.Với hơn 100 công trình kiến trúc đẹp, mặt bằng Ðại Nội chia thành nhiều khu vực khác nhau:
· Từ Ngọ Môn đến Ðiện Thái Hòa làm nơi cử hành các lễ lớn của triều đình.
· Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, Ðiện Phụng Tiên là nơi thờ vua chúa nhà Nguyễn.
· Cung Diên Thọ và Cung Trường Sanh là nơi ở của Hoàng Thái Hậu và Thái Hoàng Thái Hậu.
· Phủ Nội Vụ là nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng hoàng gia.
· Vườn Cơ Hạ và Ðiện Khâm Văn là nơi các Hoàng tử học tập và chơi đùa.
Tử Cấm Thành: Có mặt bằng cũng gần vuông, cao 3,7m, mặt trước và sau dài 324m; mặt trái và phải dài 290m. Quanh thành trổ 10 cửa. Ðại Cung Môn là cửa chính ở mặt tiền chỉ dành cho vua ra vào, hiện nay đã hư hại hoàn toàn. Bức bình phong to rộng dăng ngang sau lưng điện Cần Chánh (nơi vua làm việc hàng ngày) là dấu hiệu cho biết thế giới sau đó chỉ dành riêng cho vua và gia đình. Trong đó có hàng trăm cung nữ và hàng chục thái giám thường trú để phục vụ hoàng gia.
Trong khu vực này có gần 50 công trình kiến trúc vàng son lộng lẫy bao gồm: điện Càn Thành (nơi vua ở), điện Khôn Thái (nơi vợ chính vua ở), Duyệt Thị Ðường (nhà hát), Thượng Thiện (nơi nấu ăn cho vua), Thái Bình Lâu (nơi vua đọc sách), điện Quang Minh (nơi ở các hoàng tử), điện Trinh Minh (nơi các hoàng hậu ở), điện Kiến Trung, vườn Cẩm Uyển...
Hệ thống kiến trúc ở Ðại Nội đã được hoạch định theo những nguyên tắc chặt chẽ, đăng đối: chia ra các vị trí tiền, hậu, tả, hữu, thượng, hạ, chiêu mục tất cả đều nhất quán. Nó thể hiện những khái niệm về triết lý chính trị Nho giáo phương đông. Phần lớn các công trình kiến trúc ở đây đều làm bằng gỗ quý, nhưng cũng không chịu đựng nổi với thiên tai, khí hậu khắc nghiệt hàng thế kỷ qua và các cuộc chiến tranh tàn phá nặng nề. Cho nên một số công trình đã bị hư hỏng, các di tích quý này hiện nay đang được Nhà nước quan tâm đầu tư kinh phí để phục hồi, tôn tạo lại từng bước.
Ngoài ra hai bên Kỳ Ðài còn có hai cửa Thể Nhơn và Quảng Ðức. Ngoài ra còn có hai cửa bằng đường thủy ở hai đầu sông Ngự Hà là Ðông Thành Thủy Quan và Tây Thành Thủy Quan. Phía Hoàng Thành ở góc đông bắc có một thành nhỏ, thời Gia Long gọi là Thái Bình, đến thời Minh Mạng đổi thành Trấn Bình Ðài có chu vi gần 1km, bên ngoài có hào rộng ăn thông với hào của Hoàng Thành.
Theo nguyên tắc địa lý phong thủy của Ðông Phương và thuyết âm dương - ngũ hành của Dịch học. Kinh thành quay mặt về hướng Nam, dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng 2 hòn đảo nhỏ trên sông Hương (Cồn Hến - Cồn Dã Viên) làm rồng chầu hổ phục (Tả Thanh Long - Hữu Bạch Hổ) để bảo vệ đế đô. Dòng Sông Hương chảy ngang trước mặt dùng làm Minh Ðường. Bốn mặt kinh thành đều được bao bọc bởi hệ thống sông ngòi gọi là sông Hộ Thành.
Ở trong lòng Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành được gọi chung là Ðại Nội. Hoàng Thành dùng để bảo vệ khu vực các cơ quan lễ nghi, chính trị quan trọng nhất của triều đình và các điện thờ. Tử Cấm thành bảo vệ nơi làm việc, ăn ở và sinh họat hàng ngày của nhà vua và gia đình...
Ðược xây dựng từ 1804-1833, Ðại Nội có mặt bằng xây dựng theo hình gần vuông, mặt trước và mặt sau dài 622m, mặt trái và phải 604m. Thành xung quanh xây bằng gạch (cao 4,16m, dày 1,04m), bên ngoài có hệ thống hộ thành hào, gọi là Kim Thủy Hồ, để bảo vệ thành. Mỗi mặt trổ một cửa để ra vào: Ngọ Môn (trước), Hòa Bình (sau), Hiển Nhơn (trái), Chương Ðức (phải). Cửa chính của Ngọ Môn chỉ dành cho vua đi.Với hơn 100 công trình kiến trúc đẹp, mặt bằng Ðại Nội chia thành nhiều khu vực khác nhau:
· Từ Ngọ Môn đến Ðiện Thái Hòa làm nơi cử hành các lễ lớn của triều đình.
· Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, Ðiện Phụng Tiên là nơi thờ vua chúa nhà Nguyễn.
· Cung Diên Thọ và Cung Trường Sanh là nơi ở của Hoàng Thái Hậu và Thái Hoàng Thái Hậu.
· Phủ Nội Vụ là nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng hoàng gia.
· Vườn Cơ Hạ và Ðiện Khâm Văn là nơi các Hoàng tử học tập và chơi đùa.
Tử Cấm Thành: Có mặt bằng cũng gần vuông, cao 3,7m, mặt trước và sau dài 324m; mặt trái và phải dài 290m. Quanh thành trổ 10 cửa. Ðại Cung Môn là cửa chính ở mặt tiền chỉ dành cho vua ra vào, hiện nay đã hư hại hoàn toàn. Bức bình phong to rộng dăng ngang sau lưng điện Cần Chánh (nơi vua làm việc hàng ngày) là dấu hiệu cho biết thế giới sau đó chỉ dành riêng cho vua và gia đình. Trong đó có hàng trăm cung nữ và hàng chục thái giám thường trú để phục vụ hoàng gia.
Trong khu vực này có gần 50 công trình kiến trúc vàng son lộng lẫy bao gồm: điện Càn Thành (nơi vua ở), điện Khôn Thái (nơi vợ chính vua ở), Duyệt Thị Ðường (nhà hát), Thượng Thiện (nơi nấu ăn cho vua), Thái Bình Lâu (nơi vua đọc sách), điện Quang Minh (nơi ở các hoàng tử), điện Trinh Minh (nơi các hoàng hậu ở), điện Kiến Trung, vườn Cẩm Uyển...
Hệ thống kiến trúc ở Ðại Nội đã được hoạch định theo những nguyên tắc chặt chẽ, đăng đối: chia ra các vị trí tiền, hậu, tả, hữu, thượng, hạ, chiêu mục tất cả đều nhất quán. Nó thể hiện những khái niệm về triết lý chính trị Nho giáo phương đông. Phần lớn các công trình kiến trúc ở đây đều làm bằng gỗ quý, nhưng cũng không chịu đựng nổi với thiên tai, khí hậu khắc nghiệt hàng thế kỷ qua và các cuộc chiến tranh tàn phá nặng nề. Cho nên một số công trình đã bị hư hỏng, các di tích quý này hiện nay đang được Nhà nước quan tâm đầu tư kinh phí để phục hồi, tôn tạo lại từng bước.
NGỌ MÔN
Vừa là cổng chính, vừa là bộ mặt Ðại Nội, được xây dựng vào năm 1833 khi Minh Mạng cho quy hoạch lại mặt bằng và hoàn chỉnh hóa tổng thể kiến trúc trong Ðại Nội.
Ngọ Môn là một tổng thế kiến trúc đa dạng, phía trên là lầu Ngũ Phụng với chức năng như một lễ đài, dùng để tổ chức một số lễ nghi trọng thể như duyệt binh, lễ xướng tên những người thi đỗ tiến sĩ, lễ ban sóc hàng năm và đây cũng là nơi diễn ra lễ thoái vị của vua Bảo Ðại - vị vua cuối cùng của Việt Nam vào ngày 30/8/1945.
Theo kinh dịch thì các vị vua bao giờ cũng quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ, cho nên ngay từ thời Gia Long (1802-1819), khi xây dựng kinh đô Huế, các nhà kiến trúc đã cho hệ thống thành quách và cung điện ở vào vị thế tọa càn hướng tốn (Tây Bắc - Ðông Nam) cũng có nghĩa là hướng Bắc - Nam, thuộc Ngọ trên trục Tý - Ngọ, do đó Minh Mạng đã đặt tên cho chiếc cổng mới xây ở chính giữa mặt trước hoàng thành là Ngọ Môn, thay cho tên cũ là Nam Khuyết đài.
Hệ thống nền đài cao gần 5m, xây trên mặt bằng chữ U vuông góc, đáy dài 57,77m và cánh 27,06m. Ở phần giữa của nền đài trổ ba lối đi. Ngọ Môn dành cho vua đi, Tả và Hữu Giáp Môn dành cho các quan văn võ theo hầu trong đoàn ngự đạo. Tả và Hữu Dịch môn nằm ở hai cánh của nền đài, dành cho lính tráng và voi ngựa đi.Hệ thống lầu ngũ phụng có hai tầng, lầu gồm chín bộ mái lợp ngói hoàng lưu ly và thanh lưu ly, lầu dựng trên nền cao 1,14m xây trên nền đài. Ở tầng trên, mái lầu chia ra thành 9 bộ khác nhau.
Tổng thể Ngọ Môn nhìn từ xa như một tòa lâu đài đồ sộ nguy nga, nhưng khi tiếp cận, nó trở thành một công trình kiến trúc xinh xắn, đáng yêu, gần gũi với phong cảnh thiên nhiên và tâm hồn, tình cảm của con người xứ Huế.
Ngọ Môn là một tổng thế kiến trúc đa dạng, phía trên là lầu Ngũ Phụng với chức năng như một lễ đài, dùng để tổ chức một số lễ nghi trọng thể như duyệt binh, lễ xướng tên những người thi đỗ tiến sĩ, lễ ban sóc hàng năm và đây cũng là nơi diễn ra lễ thoái vị của vua Bảo Ðại - vị vua cuối cùng của Việt Nam vào ngày 30/8/1945.
Theo kinh dịch thì các vị vua bao giờ cũng quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ, cho nên ngay từ thời Gia Long (1802-1819), khi xây dựng kinh đô Huế, các nhà kiến trúc đã cho hệ thống thành quách và cung điện ở vào vị thế tọa càn hướng tốn (Tây Bắc - Ðông Nam) cũng có nghĩa là hướng Bắc - Nam, thuộc Ngọ trên trục Tý - Ngọ, do đó Minh Mạng đã đặt tên cho chiếc cổng mới xây ở chính giữa mặt trước hoàng thành là Ngọ Môn, thay cho tên cũ là Nam Khuyết đài.
Hệ thống nền đài cao gần 5m, xây trên mặt bằng chữ U vuông góc, đáy dài 57,77m và cánh 27,06m. Ở phần giữa của nền đài trổ ba lối đi. Ngọ Môn dành cho vua đi, Tả và Hữu Giáp Môn dành cho các quan văn võ theo hầu trong đoàn ngự đạo. Tả và Hữu Dịch môn nằm ở hai cánh của nền đài, dành cho lính tráng và voi ngựa đi.Hệ thống lầu ngũ phụng có hai tầng, lầu gồm chín bộ mái lợp ngói hoàng lưu ly và thanh lưu ly, lầu dựng trên nền cao 1,14m xây trên nền đài. Ở tầng trên, mái lầu chia ra thành 9 bộ khác nhau.
Tổng thể Ngọ Môn nhìn từ xa như một tòa lâu đài đồ sộ nguy nga, nhưng khi tiếp cận, nó trở thành một công trình kiến trúc xinh xắn, đáng yêu, gần gũi với phong cảnh thiên nhiên và tâm hồn, tình cảm của con người xứ Huế.
ĐIỆN THÁI HÒA
Trong phạm vị hoàng cung triều Nguyễn, Ðiện Thái Hòa là công trình kiến trúc quan trọng nhất xét về nhiều mặt: chức năng, vị trí, ý nghĩa lịch sử, giá trị văn hóa nghệ thuật. Ðiện Thái Hòa là địa điểm sinh hoạt quan trọng nhất của triều đình nhà Nguyễn.
Ðây là nơi diễn ra các lễ đại triều hàng tháng (vào ngày 1 và 15 âm lịch) hoặc các đại lễ khác như lễ Ðăng Quang (vua lên ngôi), lễ Vạn Thọ (sinh nhật vua), lễ Hưng Quốc Khánh Niệm... với sự tham gia của vua, hoàng thân, quốc thích và các vị đại thần.
Về lịch sử xây dựng ngôi điện này, có thể chia làm ba thời kỳ chính, trong mỗi thời kỳ đều có một số thay đổi, cải tiến về kiến trúc trang trí,...
Thời Gia Long Ðiện Thái Hòa được khởi công xây dựng vào 21/2/1805 và hoàn thành vào tháng 10/1805. Thời Minh Mạng, vào tháng Giêng năm Quý Tỵ, tức tháng 3/1833, khi tái quy hoạch và hoàn chỉnh hóa hệ thống kiến trúc cung đình Ðại Nội, vua Minh Mạng đã cho dời điện Thái Hòa hơi dé về phía Nam, đồ sộ và rộng lớn.
Thời Khải Ðịnh, năm 1923, vua Khải Ðịnh cho đại tu điện Thái Hòa để chuẩn bị cho lễ Tứ tuần đại khánh tiết. Trong đợt tu sửa lớn này, có một số bộ phận kiến trúc ngôi điện này được thay đổi và làm mới.
Trên mái điện, người ta đắp nổi 9 con rồng với một nghệ thuật cực kỳ tinh xảo. Cuối gian giữa của chính điện là ngai vàng được chạm khắc công phu, phía trên là bửu tán được trang trí cực kỳ lộng lẫy. Tám mươi cây cột gỗ lim khá lớn đều vẽ hình rồng vờn mây, màu vàng son rực rỡ.Qua kiến trúc và trang trí của Ðiện Thái Hòa, chúng ta thấy người xưa đã gửi gắm vào đó khá nhiều ý tứ sâu xa đượm màu sắc đạo lý truyền thống phương Ðông. Bên cạnh ngôn ngữ kiến trúc mang tính triết học, tòa cung điện này còn ghi lại nhiều ngôn ngữ văn học với 297 ô hộc khắc chạm và đúc nổi thơ chữ Hán, nói lên một trong những nét đặc sắc của văn hóa Phú Xuân đầu thế kỷ XIX.
Phía trước Ðiện Thái Hoà là sân Ðại Triều, hồ Thái Dịch và cầu Trung Ðạo. Sân Ðại triều chia làm 3 tầng, là nơi dành cho các quan từ nhất phẩm đến cửu phẩm sắp hàng làm lễ, thứ tự các quan được đánh dấu bởi hai hàng phẩm sơn (bia đá nhỏ) dựng ở hai bên sân.
Ðiện Thái Hòa là một trong những tòa cung điện tiêu biểu được xây dựng khá sớm ở Huế (1805), mang phong cách độc đáo của địa phương, cũng là cung điện rộng lớn, uy nghi, tráng lệ nhất trong hệ thống kiến trúc cung đình còn lại ở Huế.
Ðây là nơi diễn ra các lễ đại triều hàng tháng (vào ngày 1 và 15 âm lịch) hoặc các đại lễ khác như lễ Ðăng Quang (vua lên ngôi), lễ Vạn Thọ (sinh nhật vua), lễ Hưng Quốc Khánh Niệm... với sự tham gia của vua, hoàng thân, quốc thích và các vị đại thần.
Về lịch sử xây dựng ngôi điện này, có thể chia làm ba thời kỳ chính, trong mỗi thời kỳ đều có một số thay đổi, cải tiến về kiến trúc trang trí,...
Thời Gia Long Ðiện Thái Hòa được khởi công xây dựng vào 21/2/1805 và hoàn thành vào tháng 10/1805. Thời Minh Mạng, vào tháng Giêng năm Quý Tỵ, tức tháng 3/1833, khi tái quy hoạch và hoàn chỉnh hóa hệ thống kiến trúc cung đình Ðại Nội, vua Minh Mạng đã cho dời điện Thái Hòa hơi dé về phía Nam, đồ sộ và rộng lớn.
Thời Khải Ðịnh, năm 1923, vua Khải Ðịnh cho đại tu điện Thái Hòa để chuẩn bị cho lễ Tứ tuần đại khánh tiết. Trong đợt tu sửa lớn này, có một số bộ phận kiến trúc ngôi điện này được thay đổi và làm mới.
Trên mái điện, người ta đắp nổi 9 con rồng với một nghệ thuật cực kỳ tinh xảo. Cuối gian giữa của chính điện là ngai vàng được chạm khắc công phu, phía trên là bửu tán được trang trí cực kỳ lộng lẫy. Tám mươi cây cột gỗ lim khá lớn đều vẽ hình rồng vờn mây, màu vàng son rực rỡ.Qua kiến trúc và trang trí của Ðiện Thái Hòa, chúng ta thấy người xưa đã gửi gắm vào đó khá nhiều ý tứ sâu xa đượm màu sắc đạo lý truyền thống phương Ðông. Bên cạnh ngôn ngữ kiến trúc mang tính triết học, tòa cung điện này còn ghi lại nhiều ngôn ngữ văn học với 297 ô hộc khắc chạm và đúc nổi thơ chữ Hán, nói lên một trong những nét đặc sắc của văn hóa Phú Xuân đầu thế kỷ XIX.
Phía trước Ðiện Thái Hoà là sân Ðại Triều, hồ Thái Dịch và cầu Trung Ðạo. Sân Ðại triều chia làm 3 tầng, là nơi dành cho các quan từ nhất phẩm đến cửu phẩm sắp hàng làm lễ, thứ tự các quan được đánh dấu bởi hai hàng phẩm sơn (bia đá nhỏ) dựng ở hai bên sân.
Ðiện Thái Hòa là một trong những tòa cung điện tiêu biểu được xây dựng khá sớm ở Huế (1805), mang phong cách độc đáo của địa phương, cũng là cung điện rộng lớn, uy nghi, tráng lệ nhất trong hệ thống kiến trúc cung đình còn lại ở Huế.
THẾ MIẾU
Thế Miếu hay còn được gọi là Thế Tổ Miếu là miếu thờ của các vị vua triều Nguyễn. Thế Miếu tọa lạc ở phía tây nam của Hoàng thành. Trước đây, nơi này chính là tòa Hoàng Khảo Miếu - miếu thờ ông Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long.
Đến năm 1821, Hoàng Khảo Miếu được dời về phía bắc khoảng 50m để dành vị trí xây tòa Thế Tổ Miếu thờ vua Gia Long và Hoàng hậu. Miếu được xây dựng trong 2 năm (1821-1822), ban đầu chỉ dành để thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vì thế nơi đây mới có tên gọi Thế Tổ Miếu) nhưng về sau trở thành nơi thờ tất cả các vị vua của triều Nguyễn.
Thế Miếu nằm trong một khuôn viên hình chữ nhật có diện tích khoảng 2ha. Tòa nhà chính có 9 gian 2 chái kép, nhà trước 11 gian 2 chái đơn, nối liền nhau bằng vì vỏ cua được chạm trổ rất tinh tế. Phần ngói vốn được lợp ngói ống lưu li vàng (nay thay bằng ngói âm - dương) với đỉnh nóc gắn liền thái cực bằng pháp lam rực rỡ.
Bên trong miếu, án thờ vua Gia Long và hai Hoàng hậu được đặt ở gian giữa, các án thờ của những vị vua còn lại đặt theo hai bên trái, phải của án thờ chính. Theo gia pháp của dòng học Nguyễn thì chỉ có những vị vua băng hà khi còn tại vị thì mới được đặt án thờ trong tòa Thế Miếu. Vì thế, trước năm 1958 chỉ có 7 án thờ được đặt ở đây. Đến tháng 10/1958, án thờ của 3 vị vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân cũng đã được đưa vào thờ ở Thế Miếu.
Bên ngoài Thế Tổ Miếu, trước mặt là một chiếc sân rộng lát gạch Bát Tràng. Trên sân đặt một hàng 14 chiếc đôn đá, bên trên đặt các chậu sứ trồng hoa. Hai bên sân lại có một đôi kỳ lân bằng đồng, cuối sân là chín chiếc đỉnh đồng to lớn (Cửu Đỉnh). Tiếp theo là Hiển Lâm Các với 3 tầng cao vút. Bên ngoài bờ tường này là Tả Vu và Hữu Vu, thờ các công thần, thân huân thời Nguyễn.
Thế Tổ Miếu là khu miếu thờ bề thế và đẹp nhất. Đây cũng là khu vực thờ tự còn nguyên vẹn nhất của triều Nguyễn.
Đến năm 1821, Hoàng Khảo Miếu được dời về phía bắc khoảng 50m để dành vị trí xây tòa Thế Tổ Miếu thờ vua Gia Long và Hoàng hậu. Miếu được xây dựng trong 2 năm (1821-1822), ban đầu chỉ dành để thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vì thế nơi đây mới có tên gọi Thế Tổ Miếu) nhưng về sau trở thành nơi thờ tất cả các vị vua của triều Nguyễn.
Thế Miếu nằm trong một khuôn viên hình chữ nhật có diện tích khoảng 2ha. Tòa nhà chính có 9 gian 2 chái kép, nhà trước 11 gian 2 chái đơn, nối liền nhau bằng vì vỏ cua được chạm trổ rất tinh tế. Phần ngói vốn được lợp ngói ống lưu li vàng (nay thay bằng ngói âm - dương) với đỉnh nóc gắn liền thái cực bằng pháp lam rực rỡ.
Bên trong miếu, án thờ vua Gia Long và hai Hoàng hậu được đặt ở gian giữa, các án thờ của những vị vua còn lại đặt theo hai bên trái, phải của án thờ chính. Theo gia pháp của dòng học Nguyễn thì chỉ có những vị vua băng hà khi còn tại vị thì mới được đặt án thờ trong tòa Thế Miếu. Vì thế, trước năm 1958 chỉ có 7 án thờ được đặt ở đây. Đến tháng 10/1958, án thờ của 3 vị vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân cũng đã được đưa vào thờ ở Thế Miếu.
Bên ngoài Thế Tổ Miếu, trước mặt là một chiếc sân rộng lát gạch Bát Tràng. Trên sân đặt một hàng 14 chiếc đôn đá, bên trên đặt các chậu sứ trồng hoa. Hai bên sân lại có một đôi kỳ lân bằng đồng, cuối sân là chín chiếc đỉnh đồng to lớn (Cửu Đỉnh). Tiếp theo là Hiển Lâm Các với 3 tầng cao vút. Bên ngoài bờ tường này là Tả Vu và Hữu Vu, thờ các công thần, thân huân thời Nguyễn.
Thế Tổ Miếu là khu miếu thờ bề thế và đẹp nhất. Đây cũng là khu vực thờ tự còn nguyên vẹn nhất của triều Nguyễn.
HIỂN LÂM CÁC
Hiển Lâm Các là công trình kiến trúc cao nhất trong Hoàng Thành. Đây được coi như một đài lưu niệm ghi công những công thần đã sáng lập ra triều Nguyễn. Hiển Lâm Các được xây dựng phía trước Thế Miếu, phía tây nam Hoàng Thành, từ năm 1821 đến năm 1822 dưới thời vua Minh Mạng.
Hiển Lâm Các được xây dựng trên khối nền cao hình chữ nhật, lát gạch Bát Tràng. Từ dưới bước lên mặt nền bằng hai hệ thống bậc cấp đá Thanh, ở trước và sau mỗi hệ thống có 9 cấp bậc. Hai bên thành bậc cấp đắp hình rồng ở giữa là giới hạn lối đi giành riêng cho vua.
Hiển Lâm Các được kiến trúc bằng gỗ cao tầng. Mặt bằng tầng một chia làm ba gian hai chái. Quanh ba mặt ngoài của hai chái xây tường gạch để gia cố sức chịu lực của các hàng cột và che bớt phần nội thất. Ở hàng cột thứ 3 tính từ mặt trước có dựng một dãy đố bản, giữa mỗi gian trổ một cửa vòm. Các hệ thống kèo, liên ba, đố bản ở tầng này đều chạm nổi các mô típ hình rồng cách điệu hoá thành dây leo lá cuốn. Trên cửa giữa treo tấm hoành phi lớn đề ba chữ "Hiển Lâm Các" trên nền sơn màu lục, khung chạm 9 con rồng vờn mây sơn son thếp vàng.
Cầu thang được trang trí rất đẹp bắc lên tầng trên. Hai tay vịn chia thành các ô trang trí hình chữ "thọ", chữ "vạn". Ðầu và cuối tay vịn đều chạm nổi hình đầu và đuôi rồng uốn lượn mềm mại...
Hiển Lâm Các được xây dựng trên khối nền cao hình chữ nhật, lát gạch Bát Tràng. Từ dưới bước lên mặt nền bằng hai hệ thống bậc cấp đá Thanh, ở trước và sau mỗi hệ thống có 9 cấp bậc. Hai bên thành bậc cấp đắp hình rồng ở giữa là giới hạn lối đi giành riêng cho vua.
Hiển Lâm Các được kiến trúc bằng gỗ cao tầng. Mặt bằng tầng một chia làm ba gian hai chái. Quanh ba mặt ngoài của hai chái xây tường gạch để gia cố sức chịu lực của các hàng cột và che bớt phần nội thất. Ở hàng cột thứ 3 tính từ mặt trước có dựng một dãy đố bản, giữa mỗi gian trổ một cửa vòm. Các hệ thống kèo, liên ba, đố bản ở tầng này đều chạm nổi các mô típ hình rồng cách điệu hoá thành dây leo lá cuốn. Trên cửa giữa treo tấm hoành phi lớn đề ba chữ "Hiển Lâm Các" trên nền sơn màu lục, khung chạm 9 con rồng vờn mây sơn son thếp vàng.
Cầu thang được trang trí rất đẹp bắc lên tầng trên. Hai tay vịn chia thành các ô trang trí hình chữ "thọ", chữ "vạn". Ðầu và cuối tay vịn đều chạm nổi hình đầu và đuôi rồng uốn lượn mềm mại...
CỬU ĐỈNH
Ðặt tại sân Thế Miếu, là sản phẩm độc đáo, tinh xảo, được Bộ Công đúc tại Huế từ cuối năm 1835-đầu 1837. Cửu Ðỉnh biểu hiện ước mơ về sự trường tồn mãi mãi của triều đinh nhà Nguyễn và sự giàu đẹp của đất nước. Ðiều đó được thể hiện rất rõ trong việc đặt tên gọi cũng như tầm vóc và các hoa văn chạm nổi trên Cửu Ðỉnh. Mỗi đỉnh có khắc một tên riêng bằng chữ Hán, lấy từ miếu hiệu (tên để thờ cúng) của một vị vua nhà Nguyễn.
Và cái đỉnh đó được xem là biểu tượng của vị vua đó. Cao Ðỉnh (vua Gia Long) ở vị trí chính giữa, Ðỉnh hai bên trái phải lần lượt là: Nhân Ðỉnh (vua Minh Mạng), Chương Ðỉnh ( vua Thiệu Trị), Anh Ðỉnh (vua Tự Ðức), Nghị Ðỉnh (vua Kiến Phúc), Thuần Ðỉnh (vua Ðồng Khánh), Tuyên Ðỉnh (vua Khải Ðịnh), Dụ Ðỉnh, Huyền Ðỉnh (chưa tượng trưng cho ông vua nào cả, mặc dù triều Nguyễn còn có 6 vị vua khác).
Giá trị của 9 Ðỉnh trước hết ở tầm vóc to lớn và trình độ đúc đồng tinh xảo của các nghệ nhân đúc đồng Huế. Cao Ðỉnh cao 2,5m, nặng 2601kg-là đỉnh cao và nặng nhất. Huyền Ðỉnh cao 2,31m, nặng 1935kg - là đỉnh thấp và nhẹ nhất. Quanh hông đỉnh đều chạm trỗ 17 cảnh vật. Như vậy có tới 153 cảnh vật được chạm nổi trên Cửu Ðỉnh. Ðó là các hình ảnh: núi, sông, trăng, sao, cây cối, hoa, súc vật, vũ khí, xe, thuyền...
Có thể xem 153 bức chạm khắc ấy là 153 bức tranh. Ta sẽ thấy sông Hồng trên Tuyên Ðỉnh, sông Cửu Long trên Huyền Ðỉnh, sông Hương trên Nhân Ðỉnh.Chín đỉnh được sắp thành một hàng ngang dưới thềm Hiển Lâm Các, nằm theo thứ tự các án thờ trong Thế Miếu. Riêng Cao Ðỉnh được đặt nhích về phía trước 8 đỉnh kia một khoảng gần 3m, vì vua Minh Mạng cho rằng Gia Long là vị vua có công lớn nhất đối với triều đại.
Và cái đỉnh đó được xem là biểu tượng của vị vua đó. Cao Ðỉnh (vua Gia Long) ở vị trí chính giữa, Ðỉnh hai bên trái phải lần lượt là: Nhân Ðỉnh (vua Minh Mạng), Chương Ðỉnh ( vua Thiệu Trị), Anh Ðỉnh (vua Tự Ðức), Nghị Ðỉnh (vua Kiến Phúc), Thuần Ðỉnh (vua Ðồng Khánh), Tuyên Ðỉnh (vua Khải Ðịnh), Dụ Ðỉnh, Huyền Ðỉnh (chưa tượng trưng cho ông vua nào cả, mặc dù triều Nguyễn còn có 6 vị vua khác).
Giá trị của 9 Ðỉnh trước hết ở tầm vóc to lớn và trình độ đúc đồng tinh xảo của các nghệ nhân đúc đồng Huế. Cao Ðỉnh cao 2,5m, nặng 2601kg-là đỉnh cao và nặng nhất. Huyền Ðỉnh cao 2,31m, nặng 1935kg - là đỉnh thấp và nhẹ nhất. Quanh hông đỉnh đều chạm trỗ 17 cảnh vật. Như vậy có tới 153 cảnh vật được chạm nổi trên Cửu Ðỉnh. Ðó là các hình ảnh: núi, sông, trăng, sao, cây cối, hoa, súc vật, vũ khí, xe, thuyền...
Có thể xem 153 bức chạm khắc ấy là 153 bức tranh. Ta sẽ thấy sông Hồng trên Tuyên Ðỉnh, sông Cửu Long trên Huyền Ðỉnh, sông Hương trên Nhân Ðỉnh.Chín đỉnh được sắp thành một hàng ngang dưới thềm Hiển Lâm Các, nằm theo thứ tự các án thờ trong Thế Miếu. Riêng Cao Ðỉnh được đặt nhích về phía trước 8 đỉnh kia một khoảng gần 3m, vì vua Minh Mạng cho rằng Gia Long là vị vua có công lớn nhất đối với triều đại.
CUNG DIÊN THỌ
Cung Diên Thọ ban đầu có tên là cung Trường Thọ, là một công trình kiến trúc được xây dựng từ năm 1802. Đến năm 1820, vua Minh Mạng đổi tên cung là Từ Thọ, vua Thành Thái đổi là Ninh Thọ năm 1901. Diên Thọ là tên cuối cùng do vua Khải Định đổi năm 1916. Cung Diên Thọ là nơi ở, sinh hoạt của các bà Hoàng Thái Hậu, thái thái hậu (vợ của các vị vua đã băng hà) được đặt tại phía bắc điện Phụng Tiên và phía nam cung Trường Sinh.
Cung Diên Thọ có quy mô tương đối lớn, diện tích khoảng 17.500m2 với 4 cổng, quan trọng nhất là cổng Thọ Chỉ ở phía nam. Trong khu vực cung có khoảng 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ. Các công trình này vừa phong phú về loại hình, vừa đa dạng về phong cách kiến trúc, bởi chúng được xây dựng, cải tạo trong những thời kỳ lịch sử khác nhau.
Công trình kiến trúc trung tâm của cung Diên Thọ là ngôi điện chính, là một tòa nhà kép được xây dựng theo kiểu "trùng thiềm điệp ốc" rất đồ sộ với 7 gian, 2 chái, hai hiên trước và sau. Phía sau điện chính là điện Thọ Ninh, ngôi điện thường dành cho bà Thái hậu thứ hai. Từ đây có hành lanh nối thông qua chính điện. Ở phía đông điện chính là nhà Tạ Trường Du - nơi hóng mát hưởng thú tiêu dao mỗi ngày. Phía tây bắc là am Phước Thọ, nơi thờ Phật, thần thánh của các bà Thái Hậu. Phía tây nam có tòa Thông Minh Đường, một nhà hát cung đình đặc biệt dành cho hoàng thái hậu. Các công trình trong cung được nối kết với nhau bằng một hành lang có mái che. Hình trang trí đặc trưng tại cung Diên Thọ là con chim phượng hoàng - biểu tượng của phái nữ.
Cung Diên Thọ là công trình kiến trúc có qui mô lớn còn lại trong Hoàng Thành, tuy rằng không được nguyên vẹn như trước kia.
Cung Diên Thọ có quy mô tương đối lớn, diện tích khoảng 17.500m2 với 4 cổng, quan trọng nhất là cổng Thọ Chỉ ở phía nam. Trong khu vực cung có khoảng 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ. Các công trình này vừa phong phú về loại hình, vừa đa dạng về phong cách kiến trúc, bởi chúng được xây dựng, cải tạo trong những thời kỳ lịch sử khác nhau.
Công trình kiến trúc trung tâm của cung Diên Thọ là ngôi điện chính, là một tòa nhà kép được xây dựng theo kiểu "trùng thiềm điệp ốc" rất đồ sộ với 7 gian, 2 chái, hai hiên trước và sau. Phía sau điện chính là điện Thọ Ninh, ngôi điện thường dành cho bà Thái hậu thứ hai. Từ đây có hành lanh nối thông qua chính điện. Ở phía đông điện chính là nhà Tạ Trường Du - nơi hóng mát hưởng thú tiêu dao mỗi ngày. Phía tây bắc là am Phước Thọ, nơi thờ Phật, thần thánh của các bà Thái Hậu. Phía tây nam có tòa Thông Minh Đường, một nhà hát cung đình đặc biệt dành cho hoàng thái hậu. Các công trình trong cung được nối kết với nhau bằng một hành lang có mái che. Hình trang trí đặc trưng tại cung Diên Thọ là con chim phượng hoàng - biểu tượng của phái nữ.
Cung Diên Thọ là công trình kiến trúc có qui mô lớn còn lại trong Hoàng Thành, tuy rằng không được nguyên vẹn như trước kia.
LẦU TÀNG THƯ
Công trình này được dựng từ năm 1825 trên hồ Học Hải, dùng làm nơi tàng trữ các công văn cũ của Lục bộ và các cơ quan của triều đình. Đây có thể coi là một trong những kho lưu trữ các tài liệu văn bản quý hiếm liên quan đến sinh hoạt của triều đình và biến đổi của đất nước. Chỉ riêng số địa bạ thời Gia Long và Minh Mạng lưu trữ ở đây đã lên đến 12.000 tập.
Triều đình Nguyễn lựa chọn vị trí trên hòn đảo giữa hồ Học Hải với ý đồ cách ly với đất liền, chỉ thông thương bằng một cây cầu. Trước đây, người ta rải chất lưu huỳnh trên mặt đất tầng dưới để loại trừ mối mọt, kiến, gián. Tầng trên trổ nhiều cửa để tạo sự thông thoáng, tránh để tài liệu ẩm mốc.
Cùng với sự chấm dứt của chế độ quân chủ, Tàng Thơ Lâu cũng ngưng hoạt động. Khối lượng tài liệu khổng lồ lưu trữ tại đây cũng bị tiêu tán trong chiến tranh. Di tích này đã được công nhận là Di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo QĐ số 99/2004/QĐ-BVHTT ngày 15/12/2004.
Triều đình Nguyễn lựa chọn vị trí trên hòn đảo giữa hồ Học Hải với ý đồ cách ly với đất liền, chỉ thông thương bằng một cây cầu. Trước đây, người ta rải chất lưu huỳnh trên mặt đất tầng dưới để loại trừ mối mọt, kiến, gián. Tầng trên trổ nhiều cửa để tạo sự thông thoáng, tránh để tài liệu ẩm mốc.
Cùng với sự chấm dứt của chế độ quân chủ, Tàng Thơ Lâu cũng ngưng hoạt động. Khối lượng tài liệu khổng lồ lưu trữ tại đây cũng bị tiêu tán trong chiến tranh. Di tích này đã được công nhận là Di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo QĐ số 99/2004/QĐ-BVHTT ngày 15/12/2004.
CỬU VỊ THẦN CÔNG
Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, vua Gia Long ra lệnh tập trung tất cả khí dụng bằng đồng tịch thu được đúc thành 9 khẩu thần công để "làm kỷ niệm muôn đời" về chiến thắng của mình. Công việc được bắt đầu vào ngày 31-1-1803, hoàn tất vào cuối tháng 1 năm 1804. Mỗi khẩu dài 5,10m, nặng hơn 17.000 cân được đặt trên một giá súng và giá súng đều được chạm trổ cực kỳ công phu, tinh xảo.
Cửu vị thần công được chia thành 2 nhóm: Nhóm bên tả xếp phía sau cửa Thể Nhơn gồm 4 khẩu, được đặt tên theo 4 mùa: Xuân - Hạ - Thu - Đông. Nhóm bên hữu xếp phía sau cửa Quảng Đức gồm 5 khẩu, được đặt tên theo ngũ hành: Kim - Mộc - Thuỷ - Hỏa - Thổ. Vào năm 1816, vua Gia Long sắc phong cho cả 9 khẩu đại bác này danh hiệu: "Thần Oai Vô địch Thượng tướng quân". Danh hiệu này và nội dung bài sắc phong đều được khắc trên cả 9 khẩu.
Triều đình cử riêng một đội hình thường xuyên túc trực bên cạnh Cửu Vị Thần công để bảo vệ, đồng thời cấp tiền để tổ chức lễ cúng tế có cả trâu (hoặc bò), lợn và dê. Kể từ sau năm 1886, lễ cúng tế này bị triều đình bãi bỏ do khó khăn về tài chính. Tuy nhiên, những người lính bảo vệ vẫn tự góp tiền mua hoa, quả, hương, trầm để cúng, vì họ sợ "oai linh" của Cửu vị Thần công. Cửu vị Thần công được đánh giá là một tác phẩm nghệ thuật bằng đồng có giá trị cao.
Cửu vị thần công được chia thành 2 nhóm: Nhóm bên tả xếp phía sau cửa Thể Nhơn gồm 4 khẩu, được đặt tên theo 4 mùa: Xuân - Hạ - Thu - Đông. Nhóm bên hữu xếp phía sau cửa Quảng Đức gồm 5 khẩu, được đặt tên theo ngũ hành: Kim - Mộc - Thuỷ - Hỏa - Thổ. Vào năm 1816, vua Gia Long sắc phong cho cả 9 khẩu đại bác này danh hiệu: "Thần Oai Vô địch Thượng tướng quân". Danh hiệu này và nội dung bài sắc phong đều được khắc trên cả 9 khẩu.
Triều đình cử riêng một đội hình thường xuyên túc trực bên cạnh Cửu Vị Thần công để bảo vệ, đồng thời cấp tiền để tổ chức lễ cúng tế có cả trâu (hoặc bò), lợn và dê. Kể từ sau năm 1886, lễ cúng tế này bị triều đình bãi bỏ do khó khăn về tài chính. Tuy nhiên, những người lính bảo vệ vẫn tự góp tiền mua hoa, quả, hương, trầm để cúng, vì họ sợ "oai linh" của Cửu vị Thần công. Cửu vị Thần công được đánh giá là một tác phẩm nghệ thuật bằng đồng có giá trị cao.
PHU VĂN LÂU
Trên trục chính của Hoàng thành Huế, từ Kỳ đài nhìn ra sông Hương có hai công trình kiến trúc rất duyên dáng tô điểm cho bộ mặt của Kinh thành Huế. Một trong hai công trình ấy là Phu Văn Lâu.
Vào đầu thời Gia Long (1802-1819), đây chỉ là một toà nhà nhỏ có tên Bảng đình, dùng làm nơi công bố các chiếu thư, chỉ dụ của nhà vua hoặc các bảng thi Hội, thi Đình cho dân chúng. Năm 1819, Bảng đình được thay thế bằng một toà kiến trúc hai tầng mái với 16 cây cột, xung quanh không có vách, tạo nét thanh tú và độc đáo với tên gọi là Phu Văn Lâu. Phu Văn Lâu còn là nơi ban phát lịch hoặc các sinh hoạt vui chơi dành cho dân chúng do triều đình tổ chức...Thời Minh Mạng, nhà vua quy định sau khi các chiếu thư được tuyên đọc ở Ngọ Môn hoặc điện Thái Hoà sẽ được đặt trên long đình, có che lọng và quân lính theo hầu hai bên để đưa ra niêm yết tại Phu Văn Lâu. Các quan hàng tỉnh và hương lão phải đến quỳ lạy trước chiếu thư.
Hai bên mặt trước Phu Văn Lâu có đặt hai khẩu súng thần công nhỏ bằng đồng hướng vào nhau. Để tỏ lòng tôn trọng nhà vua và những văn bản được niêm yết trong Phu Văn Lâu, trước đây có hai tấm bia "Khuynh cái hạ mã" ở hai bên công trình, quy định ai đi qua đây cũng đều phải nghiêng lọng, xuống ngựa.
Gần bên phải Phu Văn Lâu còn có tấm bia trên khắc bài thơ "Hương giang hiểu phiếm” nói về cảnh đẹp của sông Hương, một trong hai mươi thắng cảnh đất thần kinh mà vua Thiệu Trị đã ca ngợi. Phu Văn Lâu đã được tu bổ nhiều lần nhưng vẫn giữ nguyên cốt cách đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn. Để tạo điều kiện cho việc bảo tồn và phát huy giá trị của di tích độc đáo này, công trình đã được lập hồ sơ xin công nhận di tích lịch sử-văn hoá cấp quốc gia.
Vào đầu thời Gia Long (1802-1819), đây chỉ là một toà nhà nhỏ có tên Bảng đình, dùng làm nơi công bố các chiếu thư, chỉ dụ của nhà vua hoặc các bảng thi Hội, thi Đình cho dân chúng. Năm 1819, Bảng đình được thay thế bằng một toà kiến trúc hai tầng mái với 16 cây cột, xung quanh không có vách, tạo nét thanh tú và độc đáo với tên gọi là Phu Văn Lâu. Phu Văn Lâu còn là nơi ban phát lịch hoặc các sinh hoạt vui chơi dành cho dân chúng do triều đình tổ chức...Thời Minh Mạng, nhà vua quy định sau khi các chiếu thư được tuyên đọc ở Ngọ Môn hoặc điện Thái Hoà sẽ được đặt trên long đình, có che lọng và quân lính theo hầu hai bên để đưa ra niêm yết tại Phu Văn Lâu. Các quan hàng tỉnh và hương lão phải đến quỳ lạy trước chiếu thư.
Hai bên mặt trước Phu Văn Lâu có đặt hai khẩu súng thần công nhỏ bằng đồng hướng vào nhau. Để tỏ lòng tôn trọng nhà vua và những văn bản được niêm yết trong Phu Văn Lâu, trước đây có hai tấm bia "Khuynh cái hạ mã" ở hai bên công trình, quy định ai đi qua đây cũng đều phải nghiêng lọng, xuống ngựa.
Gần bên phải Phu Văn Lâu còn có tấm bia trên khắc bài thơ "Hương giang hiểu phiếm” nói về cảnh đẹp của sông Hương, một trong hai mươi thắng cảnh đất thần kinh mà vua Thiệu Trị đã ca ngợi. Phu Văn Lâu đã được tu bổ nhiều lần nhưng vẫn giữ nguyên cốt cách đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn. Để tạo điều kiện cho việc bảo tồn và phát huy giá trị của di tích độc đáo này, công trình đã được lập hồ sơ xin công nhận di tích lịch sử-văn hoá cấp quốc gia.
BẢO TÀNG MỸ THUẬT CUNG ĐÌNH
Nằm trong Thành Nội, đây là Bảo tàng được thành lập sớm nhất ở Huế, vào năm 1923, với danh xưng đầu tiên là Musee’ Khải Định.
Sau đó, nó đã năm lần được thay đổi tên:
· Tàng Cổ Viện Huế (từ năm 1947, dưới thời hội đồng chấp chính Trung Kỳ).
· Viện bảo tàng Huế (dưới thời Ngô Đình Diệm).
· Nhà trưng bày cổ vật (từ năm 1979).
· Bảo tàng cổ vật Huế (từ năm 1992).
· Bảo tàng mỹ thuật cung đình Huế (từ năm 1995).
· Ngoại thất điện Long An
Dù sao cũng đã có một thời, nhất là trước năm 1945, nó là một trong những bảo tàng sáng giá nhất Đông Dương và được nhiều nhà nghiên cứu cũng như nhiều học hội trên thế giới biết đến.
Thật vậy, mãi đến giữa thế kỷ này, học giới trong nước và ngoại quốc vẫn cho rằng tại Việt Nam, những bảo tàng nỗi tiếng nhất về lịch sử và mỹ thuật là bảo tàng Louis Finot (nay là bảo tàng Lịch sử Việt Nam ở Hà Nội), bảo tàng Blanchard de la Brosse (nay là bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh), bảo tàng Parmentier (nay là bảo tàng chàm ở Đà Nẵng) và Musee’ Khải Định. Đó là những bảo tàng vừa có giá trị quốc gia vừa có gíá trị quốc tế, được thành lập từ những thập niên đầu thế kỷ XX.
Riêng Musee’ Khải Định là một tổ hợp động sản và bất động sản gắn liền với triều đại nhà Nguyễn (1802-1945).
Khuôn viên bảo tàng rộng đến 6.330 m2, trong đó có tòa nhà chính ở giữa với diện tích mặt bằng 1.185m2 và một số nhà phụ dùng làm kho tàng trữ cổ vật, sân vườn,...Tòa nhà chính vốn là ngôi điện Long An nằm trong cung Bảo Định được xây dựng năm 1845 ở bờ Bắc Ngự Hà. Đó là một biệt cung để vua Thiệu Trị (1841-1847) thỉnh thoảng đến tiêu khiển và làm chỗ nghỉ chân hàng năm khi ra cày ruộng Tịch điền ở gần đó. Vào năm 1909, thời vua Duy Tân, triều đình cho dời điện Long An đến vị trí hiện nay để làm thư viện của trường Quốc Tử Giám kề ngay đó. Đến năm 1923, do đề nghị của hội Đô Thành Hiếu Cổ (Association des Amis du Vieus Hue), Nam Triều cho di chuyển toàn bộ tài liệu sách vở trong thư viện này qua một dãy nhà nằm bên trái Di Luân Đường trong khuôn viên trường Quốc Tử Giám, rồi đặt cho nó cái tên mới là Bảo Đại thư viện, còn tòa điện Long An cũ thì dùng làm Musee’ Khải Định.
Người xưa đã rất có lý khi dùng điện Long An làm bảo tàng. Đây là một công trình kiến trúc tuyệt mỹ bằng gỗ lim, được xây dựng theo phong cách nghệ thuật kiến trúc cung điện độc đáo của Huế. Ngôi điện được làm theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc” với 128 cột. Trang trí nội ngoại thất cực kỳ phong phú, giàu tính nghệ thuật và rất thanh nhã.
Cố họa sĩ Phạm Đăng Trí đã từng nhận xét: “Những lần tôi đến đây thường say sưa ngắm những ô hộc chạm xương hay khảm xà cừ nằm trong liên ba thành vọng đủ cỡ vòng quanh mấy hàng cột trông giống như những nghi môn có lớp cao lớp thấp. Càng ngắm tôi càng nhận thấy phần trang trí trong kiến trúc thời Thiệu Trị là tinh vi hơn cả so với những thời khác tại Huế. Nó vừa lộng lẫy lại vừa thanh nhã và khéo điểm sáng những chỗ chính, tô mờ những chỗ phụ, trang sức trong những đoạn cần thiết mà thôi”.
Trên bờ nóc và bờ quyết thì trang trí hình “lưỡng long tranh châu” và hình “tứ linh: long lân quy phụng". Nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật đã đồng ý với nhau rằng đây là “tòa nhà nguy nga tráng lệ vào hạng đẹp nhất của các cung điện Việt Nam”. Như vậy, riêng điện Long An đã là một hiện vật bảo tàng qúy báu rồi.
Phần lớn các hiện vật trong bảo tàng này đã được sưu tập và tàng trữ từ năm 1913, khi hội Đô Thành Hiếu Cổ bắt đầu thành lập và hoạt động, đến tháng 3 năm 1975, khi xảy ra cuộc đảo chính Nhật hất cẳng Pháp tại Đông Dương, học hội ấy cũng bị tan rã. Bấy giờ, số hiện vật trưng bay và tàng trữ ở đây đã lên đến gần 10.000 đơn vị. Chúng được chế tác bằng đủ loại nguyên liệu như vàng, bạc, đồng, thủy tinh, đất nung, đá, gỗ, mây, tre vải, da, giấy, ...Phần lớn là đồ ngự dụng, quan dụng, đồ dùng của triều đình, hoàng gia, các tác phẩm mỹ thuật từng được trưng bày trong các cung điện tại kinh triều Nguyễn.
Trải qua sự hủy hoại của thời gian và sự thất thoát do lòng tham của con người, số cổ vật ở đó không còn nguyên vẹn như xưa. Nhưng, ngày nay khi đến đó, du khách vẫn còn chiêm ngưỡng được hàng trăm hiện vật qúy hiếm như ngai vàng, kiệu vua, long sàn, ngự y, áo hoàng thái hậu, hài hoàng hậu, sập gụ tủ chè, tranh thơ ngự chế, đồ sành đồ sứ, đồ bạc, đồ đồng, đồ pháp lam, ...được trưng bày trong điện này.
Phần lớn đó là những sản phẩm thủ công mỹ nghệ do các “bàn tay vàng” một thời làm ra theo lệnh của triều đình, hoặc để cung tiến cho vua. Chúng không phải là những mặt hàng sản xuất hàng lọat, mà mỗi thứ chỉ có một bộ hoặc một chiếc duy nhất. Qúy hiếm và độc đáo là vậy.
Ngoài các hiện vật được trưng bày, bảo tàng còn cất giữ hàng ngàn hiện vật khác co triều đình cho sản xuất tại chỗ, đặt làm, hoặc mua từ ngoại quốc, và do các phái bộ ngoại giao mang đến biếu tặng. Nhiều nhất ở đây là dồ sứ men lam, thường được gọi là “Bleu de Hue’ “. Đây là “đồ kiểu” được chế tác bằng kỹ thuật cao, do triều đình nhà Nguyễn đặt làm từ các lò sản xuất đồ gốm nổi tiếng bên Trung Hoa, căn cứ theo sở thích, mẫu mã, kích cỡ mà vua quan Việt Nam nêu ra trong “đơn đặt hàng”. Trong kho gốm men cũng có một số đồ sản xuất tại Pháp, Nhật, Anh, Mỹ ....khoảng 100 bộ áo quần của các vua, hòang hậu, hòang tử, quan lại, lính tráng cũng đang được lưu giữ ở kho đồ vải.
Trong khuôn viên bảo tàng này, còn có một nhà kho khác tàng trữ hơn 80 hiện vật Chàm được sưu tầm tại vùng châu Ô, châu Lý ngày xưa, và mang ra từ Trà Kiệu trong những cuộc khai quật khảo cổ học tại đó vào năm 1927. Riêng các hiện vật Chàm đã từng được những nhà nghiên cứu đánh giá là những di sản văn hóa quy hiếm chẳng những của vùng Viễn Đông mà còn của thế giới nữa. Nhìn chung, ngôi điện Long An cổ kính cũng như các hiện vật ở đây có một sức hấp dẫn đặc biệt đối với du khách quốc nội và quốc tế, xưa nay, khi đến viếng cố đô.
Sau đó, nó đã năm lần được thay đổi tên:
· Tàng Cổ Viện Huế (từ năm 1947, dưới thời hội đồng chấp chính Trung Kỳ).
· Viện bảo tàng Huế (dưới thời Ngô Đình Diệm).
· Nhà trưng bày cổ vật (từ năm 1979).
· Bảo tàng cổ vật Huế (từ năm 1992).
· Bảo tàng mỹ thuật cung đình Huế (từ năm 1995).
· Ngoại thất điện Long An
Dù sao cũng đã có một thời, nhất là trước năm 1945, nó là một trong những bảo tàng sáng giá nhất Đông Dương và được nhiều nhà nghiên cứu cũng như nhiều học hội trên thế giới biết đến.
Thật vậy, mãi đến giữa thế kỷ này, học giới trong nước và ngoại quốc vẫn cho rằng tại Việt Nam, những bảo tàng nỗi tiếng nhất về lịch sử và mỹ thuật là bảo tàng Louis Finot (nay là bảo tàng Lịch sử Việt Nam ở Hà Nội), bảo tàng Blanchard de la Brosse (nay là bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh), bảo tàng Parmentier (nay là bảo tàng chàm ở Đà Nẵng) và Musee’ Khải Định. Đó là những bảo tàng vừa có giá trị quốc gia vừa có gíá trị quốc tế, được thành lập từ những thập niên đầu thế kỷ XX.
Riêng Musee’ Khải Định là một tổ hợp động sản và bất động sản gắn liền với triều đại nhà Nguyễn (1802-1945).
Khuôn viên bảo tàng rộng đến 6.330 m2, trong đó có tòa nhà chính ở giữa với diện tích mặt bằng 1.185m2 và một số nhà phụ dùng làm kho tàng trữ cổ vật, sân vườn,...Tòa nhà chính vốn là ngôi điện Long An nằm trong cung Bảo Định được xây dựng năm 1845 ở bờ Bắc Ngự Hà. Đó là một biệt cung để vua Thiệu Trị (1841-1847) thỉnh thoảng đến tiêu khiển và làm chỗ nghỉ chân hàng năm khi ra cày ruộng Tịch điền ở gần đó. Vào năm 1909, thời vua Duy Tân, triều đình cho dời điện Long An đến vị trí hiện nay để làm thư viện của trường Quốc Tử Giám kề ngay đó. Đến năm 1923, do đề nghị của hội Đô Thành Hiếu Cổ (Association des Amis du Vieus Hue), Nam Triều cho di chuyển toàn bộ tài liệu sách vở trong thư viện này qua một dãy nhà nằm bên trái Di Luân Đường trong khuôn viên trường Quốc Tử Giám, rồi đặt cho nó cái tên mới là Bảo Đại thư viện, còn tòa điện Long An cũ thì dùng làm Musee’ Khải Định.
Người xưa đã rất có lý khi dùng điện Long An làm bảo tàng. Đây là một công trình kiến trúc tuyệt mỹ bằng gỗ lim, được xây dựng theo phong cách nghệ thuật kiến trúc cung điện độc đáo của Huế. Ngôi điện được làm theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc” với 128 cột. Trang trí nội ngoại thất cực kỳ phong phú, giàu tính nghệ thuật và rất thanh nhã.
Cố họa sĩ Phạm Đăng Trí đã từng nhận xét: “Những lần tôi đến đây thường say sưa ngắm những ô hộc chạm xương hay khảm xà cừ nằm trong liên ba thành vọng đủ cỡ vòng quanh mấy hàng cột trông giống như những nghi môn có lớp cao lớp thấp. Càng ngắm tôi càng nhận thấy phần trang trí trong kiến trúc thời Thiệu Trị là tinh vi hơn cả so với những thời khác tại Huế. Nó vừa lộng lẫy lại vừa thanh nhã và khéo điểm sáng những chỗ chính, tô mờ những chỗ phụ, trang sức trong những đoạn cần thiết mà thôi”.
Trên bờ nóc và bờ quyết thì trang trí hình “lưỡng long tranh châu” và hình “tứ linh: long lân quy phụng". Nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật đã đồng ý với nhau rằng đây là “tòa nhà nguy nga tráng lệ vào hạng đẹp nhất của các cung điện Việt Nam”. Như vậy, riêng điện Long An đã là một hiện vật bảo tàng qúy báu rồi.
Phần lớn các hiện vật trong bảo tàng này đã được sưu tập và tàng trữ từ năm 1913, khi hội Đô Thành Hiếu Cổ bắt đầu thành lập và hoạt động, đến tháng 3 năm 1975, khi xảy ra cuộc đảo chính Nhật hất cẳng Pháp tại Đông Dương, học hội ấy cũng bị tan rã. Bấy giờ, số hiện vật trưng bay và tàng trữ ở đây đã lên đến gần 10.000 đơn vị. Chúng được chế tác bằng đủ loại nguyên liệu như vàng, bạc, đồng, thủy tinh, đất nung, đá, gỗ, mây, tre vải, da, giấy, ...Phần lớn là đồ ngự dụng, quan dụng, đồ dùng của triều đình, hoàng gia, các tác phẩm mỹ thuật từng được trưng bày trong các cung điện tại kinh triều Nguyễn.
Trải qua sự hủy hoại của thời gian và sự thất thoát do lòng tham của con người, số cổ vật ở đó không còn nguyên vẹn như xưa. Nhưng, ngày nay khi đến đó, du khách vẫn còn chiêm ngưỡng được hàng trăm hiện vật qúy hiếm như ngai vàng, kiệu vua, long sàn, ngự y, áo hoàng thái hậu, hài hoàng hậu, sập gụ tủ chè, tranh thơ ngự chế, đồ sành đồ sứ, đồ bạc, đồ đồng, đồ pháp lam, ...được trưng bày trong điện này.
Phần lớn đó là những sản phẩm thủ công mỹ nghệ do các “bàn tay vàng” một thời làm ra theo lệnh của triều đình, hoặc để cung tiến cho vua. Chúng không phải là những mặt hàng sản xuất hàng lọat, mà mỗi thứ chỉ có một bộ hoặc một chiếc duy nhất. Qúy hiếm và độc đáo là vậy.
Ngoài các hiện vật được trưng bày, bảo tàng còn cất giữ hàng ngàn hiện vật khác co triều đình cho sản xuất tại chỗ, đặt làm, hoặc mua từ ngoại quốc, và do các phái bộ ngoại giao mang đến biếu tặng. Nhiều nhất ở đây là dồ sứ men lam, thường được gọi là “Bleu de Hue’ “. Đây là “đồ kiểu” được chế tác bằng kỹ thuật cao, do triều đình nhà Nguyễn đặt làm từ các lò sản xuất đồ gốm nổi tiếng bên Trung Hoa, căn cứ theo sở thích, mẫu mã, kích cỡ mà vua quan Việt Nam nêu ra trong “đơn đặt hàng”. Trong kho gốm men cũng có một số đồ sản xuất tại Pháp, Nhật, Anh, Mỹ ....khoảng 100 bộ áo quần của các vua, hòang hậu, hòang tử, quan lại, lính tráng cũng đang được lưu giữ ở kho đồ vải.
Trong khuôn viên bảo tàng này, còn có một nhà kho khác tàng trữ hơn 80 hiện vật Chàm được sưu tầm tại vùng châu Ô, châu Lý ngày xưa, và mang ra từ Trà Kiệu trong những cuộc khai quật khảo cổ học tại đó vào năm 1927. Riêng các hiện vật Chàm đã từng được những nhà nghiên cứu đánh giá là những di sản văn hóa quy hiếm chẳng những của vùng Viễn Đông mà còn của thế giới nữa. Nhìn chung, ngôi điện Long An cổ kính cũng như các hiện vật ở đây có một sức hấp dẫn đặc biệt đối với du khách quốc nội và quốc tế, xưa nay, khi đến viếng cố đô.
VĂN MIẾU
Lập ra để tôn vinh các thánh hiền của đạo Nho, đồng thời là nơi đào tạo nhân tài của đất nước. Khởi công xây dựng từ 17/4/1808 đến 12/9/1808 tại một ngọn đồi thấp phía trên chùa Thiên Mụ sát tả ngạn sông Hương. Văn Miếu quay về hướng Nam tọa lạc trên một mô đất hình vuông, mỗi cạnh chừng 160m, xung quanh có la thành bao bọc.
Tất cả chừng 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ, trong đó có 32 tấm bia khắc tên, tuổi, quê quán của 239 vị tiến sĩ của các kỳ thi được tổ chức dưới triều Nguyễn và 4 tấm bia khác.
Văn Miếu đã nhiều lần được tu sửa, xây dựng thêm các công trình phụ nhất là dưới thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị. Từ thời Minh Mạng về sau mở các khoa thi Hội nên bắt đầu dựng bia tiến sĩ từ 1831-1919.
Hơn nửa thế kỷ nay, chiến tranh và thiên nhiên đã tàn phá, Văn Miếu trở thành nơi hoang phế, điêu tàn, vừa qua được tiến hành trùng tu lại với nỗ lực giữ gìn sự tồn tại những di tích có giá trị về nghệ thuật, văn hóa và lịch sử.
Tất cả chừng 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ, trong đó có 32 tấm bia khắc tên, tuổi, quê quán của 239 vị tiến sĩ của các kỳ thi được tổ chức dưới triều Nguyễn và 4 tấm bia khác.
Văn Miếu đã nhiều lần được tu sửa, xây dựng thêm các công trình phụ nhất là dưới thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị. Từ thời Minh Mạng về sau mở các khoa thi Hội nên bắt đầu dựng bia tiến sĩ từ 1831-1919.
Hơn nửa thế kỷ nay, chiến tranh và thiên nhiên đã tàn phá, Văn Miếu trở thành nơi hoang phế, điêu tàn, vừa qua được tiến hành trùng tu lại với nỗ lực giữ gìn sự tồn tại những di tích có giá trị về nghệ thuật, văn hóa và lịch sử.
QUỐC TỬ GIÁM
Quốc Tử Giám là trường Ðại học quốc gia ngày xưa do triều đình mở ra để đào tạo nhân tài. Ở nước ta, Quốc Tử Giám đầu tiên đã được thành lập vào năm 1076 tại Kinh đô Thăng Long. Dưới thời Gia Long, cùng với việc xây dựng Văn Miếu ở vị trí phía trên chùa Thiên Mụ, trường Quốc Tử Giám cũng được lập ra ở đó. Sang thời Minh Mạng, số lượng người đi học ngày càng đông, quy mô trường ngày càng được mở rộng.
Năm 1821, xây thêm Di Luân đường, giảng đường để học và xây thêm mỗi bên ba dãy nhà làm nơi ở cho học sinh nội trú. Năm 1825 cho sửa lại, xây dựng thêm mỗi bên một dãy nhà ở 20 gian, xây tường bao bọc ba mặt của trường.Năm 1908, thời vua Duy Tân, Quốc Tử Giám được dời vào bên trong Kinh thành, ở vị trí hiện nay. Qui mô trường gồm tòa nhà Di Luân Ðường ở vị trí chính giữa, hai bên là các dãy phòng học của giám sinh. Phía sau trường, ở giữa là toà nhà Tân Thơ Viện (hiện nay là Bảo Tàng Mỹ Thuật Cung Ðình), hai bên là hai nhà của các quan Tế Tửu, Tư Nghiệp (Hiệu Trưởng, Hiệu Phó). Trường Quốc Tử Giám là một trong hai ngôi trường Ðại học của thời quân chủ còn lại trên đất nước ta. Ðây là một di tích lịch sử và văn hóa rất có giá trị.
Năm 1821, xây thêm Di Luân đường, giảng đường để học và xây thêm mỗi bên ba dãy nhà làm nơi ở cho học sinh nội trú. Năm 1825 cho sửa lại, xây dựng thêm mỗi bên một dãy nhà ở 20 gian, xây tường bao bọc ba mặt của trường.Năm 1908, thời vua Duy Tân, Quốc Tử Giám được dời vào bên trong Kinh thành, ở vị trí hiện nay. Qui mô trường gồm tòa nhà Di Luân Ðường ở vị trí chính giữa, hai bên là các dãy phòng học của giám sinh. Phía sau trường, ở giữa là toà nhà Tân Thơ Viện (hiện nay là Bảo Tàng Mỹ Thuật Cung Ðình), hai bên là hai nhà của các quan Tế Tửu, Tư Nghiệp (Hiệu Trưởng, Hiệu Phó). Trường Quốc Tử Giám là một trong hai ngôi trường Ðại học của thời quân chủ còn lại trên đất nước ta. Ðây là một di tích lịch sử và văn hóa rất có giá trị.
ĐÀN NAM GIAO
Đàn Nam Giao là nơi các vua Nguyễn tế trời, được đặt tại làng An Ninh vào năm 1803, thời vua Gia Long. Năm 1806, đàn được dời về phía Nam của Kinh Thành - nay là địa phận phường Trường An, thành phố Huế. Đây là đàn tế trời duy nhất ở Việt Nam còn khá nguyên vẹn, với rừng thông xanh bao bọc quanh đàn.
Trước đây, đích thân vua cùng các quan trong triều phải trồng và chăm sóc những cây thông này. Đối với họ, đây là chốn thiêng liêng bậc nhất cần phải gìn giữ. Ngày nay, số thông cũ tuy không còn nhưng một loạt các cây khác đã được tiếp tục trồng thay thế. Đàn gồm 3 tầng, xây chồng lên nhau, tượng trung cho “tam tài“: thiên, địa, nhân.
Tầng trên cùng hình tròn - Viên Đàn - tượng trưng cho trời, xung quanh có lan can quét vôi màu xanh. Trên nền Viên Đàn có lát những phiến đá Thanh được khoét lỗ tròn. Đến kỳ tế lễ, những lỗ này được dùng để cắm cột dựng lều vải màu xanh hình nón, gọi là Thanh Ốc.
Tầng tiếp theo hình vuông - Phương Đàn - tượng trưng cho đất, lan can quét vôi màu vàng. Khi tế, người ta dựng lều vải màu vàng, gọi là Hoàng Ốc.
Tầng dưới cùng cũng có hình vuông, lan can quét vôi màu đỏ, tượng trung cho con người. Cả ba tầng đều có trổ cửa và bậc cấp ở 4 mặt Đông, Tây, Nam, Bắc.
Xung quanh ba tầng đàn này còn có các công trình như Trai Cung (dành cho vua vào nghỉ ngơi trai giới trước khi tế vài ngày), Thần Trù (nhà bếp, nơi chuẩn bị các con vật cúng tế), Thần Khố (kho chứa đồ dùng cho cuộc tế) và một số công trình phụ khác.
Theo quan niệm “Vua là Thiên tử“ (con trời) nên chỉ có vua mới được quyền cúng tế trời đất (cha mẹ của vua), cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, tạ ơn trời đất. Lễ Tế Giao đầu tiên dưới thời Nguyễn được tổ chức năm 1807 và từ đó trở đi được tổ chức vào mùa xuân hàng năm cho đến thời Thành Thái, vào năm 1907, thì đổi lại 3 năm một lần.
Công việc chuẩn bị được giao cho bộ Công và bộ Lễ, tiến hành hàng tháng trước khi tế, liên quan đến nhiều nghi lễ phức tạp, vật dụng tốn kém. Các quan và bản thân nhà vua cũng phải trai giới 3 ngày trước khi tế. Dưới thời Bảo Đại, thời gian trai giới rút xuống còn 1 ngày.
Người ta gọi những con vật được đem ra cúng trong dịp này là các con sinh (hay còn gọi con sanh). Đó là trâu, heo, dê. Hàng chục con được tập trung vỗ béo từ trước bằng những thức ăn tinh sạch. Khâm Thiên Giám có nhiệm vụ xem ngày lành tháng tốt. Vua đích thân ban hành những chiếu dụ thông báo cho dân chúng, tri ân cho các quan và cho phép giảm án tù.
Dọc đường từ Đại Nội đến Giao Đàn, nhân dân phải kết cổng chào, lập hương án đón đám rước nhà vua đi qua. Đoàn Ngự đạo của nhà vua sẽ đi ra từ Ngọ Môn, vượt sông Hương qua cầu phao bằng thuyền (khi chưa có cầu Trường Tiền), đến Nam Giao bằng con đường mà trước đây gọi là “Nam Giao cựu lộ“ là đường Phan Bội Châu và “Nam Giao tân lộ” tức là đường Điện Biên Phủ ngày nay.
Cuộc lễ chính thức bắt đầu lúc 2 giờ sáng, với nhiều nghi lễ lần lượt tiến hành ở các tầng đàn, có sự tham gia của các quan cũng như sự góp mặt của dàn nhạc (chuông, trống, chiêng, khánh, tù và, nhị, sáo...). 128 văn công và vũ công múa Bát Dật, các ca công hát 9 khúc nhạc tế trong 9 giai đoạn khác nhau của cuộc lễ. Sau gần 3 tiếng đồng hồ, buổi tế mới kết thúc.
Lễ Tế Giao cuối cùng của nền quân chủ Việt Nam được tổ chức dưới thời vua Bảo Đại, vào nửa đêm rạng ngày 23-3-1945, đúng 5 tháng trước khi nền quân chủ ấy sụp đổ hoàn toàn.
Ngày nay, đàn Nam Giao trở thành một chứng tích lịch sử quan trọng trong cụm di tích triều Nguyễn.
Trước đây, đích thân vua cùng các quan trong triều phải trồng và chăm sóc những cây thông này. Đối với họ, đây là chốn thiêng liêng bậc nhất cần phải gìn giữ. Ngày nay, số thông cũ tuy không còn nhưng một loạt các cây khác đã được tiếp tục trồng thay thế. Đàn gồm 3 tầng, xây chồng lên nhau, tượng trung cho “tam tài“: thiên, địa, nhân.
Tầng trên cùng hình tròn - Viên Đàn - tượng trưng cho trời, xung quanh có lan can quét vôi màu xanh. Trên nền Viên Đàn có lát những phiến đá Thanh được khoét lỗ tròn. Đến kỳ tế lễ, những lỗ này được dùng để cắm cột dựng lều vải màu xanh hình nón, gọi là Thanh Ốc.
Tầng tiếp theo hình vuông - Phương Đàn - tượng trưng cho đất, lan can quét vôi màu vàng. Khi tế, người ta dựng lều vải màu vàng, gọi là Hoàng Ốc.
Tầng dưới cùng cũng có hình vuông, lan can quét vôi màu đỏ, tượng trung cho con người. Cả ba tầng đều có trổ cửa và bậc cấp ở 4 mặt Đông, Tây, Nam, Bắc.
Xung quanh ba tầng đàn này còn có các công trình như Trai Cung (dành cho vua vào nghỉ ngơi trai giới trước khi tế vài ngày), Thần Trù (nhà bếp, nơi chuẩn bị các con vật cúng tế), Thần Khố (kho chứa đồ dùng cho cuộc tế) và một số công trình phụ khác.
Theo quan niệm “Vua là Thiên tử“ (con trời) nên chỉ có vua mới được quyền cúng tế trời đất (cha mẹ của vua), cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, tạ ơn trời đất. Lễ Tế Giao đầu tiên dưới thời Nguyễn được tổ chức năm 1807 và từ đó trở đi được tổ chức vào mùa xuân hàng năm cho đến thời Thành Thái, vào năm 1907, thì đổi lại 3 năm một lần.
Công việc chuẩn bị được giao cho bộ Công và bộ Lễ, tiến hành hàng tháng trước khi tế, liên quan đến nhiều nghi lễ phức tạp, vật dụng tốn kém. Các quan và bản thân nhà vua cũng phải trai giới 3 ngày trước khi tế. Dưới thời Bảo Đại, thời gian trai giới rút xuống còn 1 ngày.
Người ta gọi những con vật được đem ra cúng trong dịp này là các con sinh (hay còn gọi con sanh). Đó là trâu, heo, dê. Hàng chục con được tập trung vỗ béo từ trước bằng những thức ăn tinh sạch. Khâm Thiên Giám có nhiệm vụ xem ngày lành tháng tốt. Vua đích thân ban hành những chiếu dụ thông báo cho dân chúng, tri ân cho các quan và cho phép giảm án tù.
Dọc đường từ Đại Nội đến Giao Đàn, nhân dân phải kết cổng chào, lập hương án đón đám rước nhà vua đi qua. Đoàn Ngự đạo của nhà vua sẽ đi ra từ Ngọ Môn, vượt sông Hương qua cầu phao bằng thuyền (khi chưa có cầu Trường Tiền), đến Nam Giao bằng con đường mà trước đây gọi là “Nam Giao cựu lộ“ là đường Phan Bội Châu và “Nam Giao tân lộ” tức là đường Điện Biên Phủ ngày nay.
Cuộc lễ chính thức bắt đầu lúc 2 giờ sáng, với nhiều nghi lễ lần lượt tiến hành ở các tầng đàn, có sự tham gia của các quan cũng như sự góp mặt của dàn nhạc (chuông, trống, chiêng, khánh, tù và, nhị, sáo...). 128 văn công và vũ công múa Bát Dật, các ca công hát 9 khúc nhạc tế trong 9 giai đoạn khác nhau của cuộc lễ. Sau gần 3 tiếng đồng hồ, buổi tế mới kết thúc.
Lễ Tế Giao cuối cùng của nền quân chủ Việt Nam được tổ chức dưới thời vua Bảo Đại, vào nửa đêm rạng ngày 23-3-1945, đúng 5 tháng trước khi nền quân chủ ấy sụp đổ hoàn toàn.
Ngày nay, đàn Nam Giao trở thành một chứng tích lịch sử quan trọng trong cụm di tích triều Nguyễn.
HỔ QUYỀN
Hổ Quyền là một di tích hết sức đặc biệt trong quần thể di tích cố đô Huế, tọa lạc tại địa phận thôn Trường Đá, xã Thủy Biều, thành phố Huế.
Như ý nghĩa mà hai chữ Hổ Quyền bao hàm, đây thực sự là một chuồng nuôi hổ. Song bên cạnh đó, nó còn có chức năng của một đấu trường hết sức độc đáo mà theo sự hiểu biết của chúng tôi thì không hề có ở bất cứ nơi đâu trên thế giới: đấu trường của những cuộc tử chiến giữa voi và hổ.
Sự hình thành Hổ Quyền dưới triều Nguyễn có thể nói là hệ quả tất yếu của một loạt sự kiện xảy ra trong một quá trình lịch sử dài đến mấy trăm năm. Những trận đấu giữa voi và hổ được tổ chức sớm nhất có tư liệu ghi chép lại là vào thời các chúa Nguyễn (1558-1775). Tất nhiên không phải tổ chức ở Hổ Quyền vì bấy giờ công trình này chưa được xây dựng. Một học giả người Pháp là Pierre Poivre cho biết ông đã từng thấy những trận đấu giữa voi và hổ do chúa Nguyễn tổ chức ở đảo Dã Viên trên sông Hương. Ông cũng kể thêm là vào năm 1750, có một lần chúa Nguyễn Phúc Khoát cùng với triều thần đi trên 12 chiếc thuyền đến hòn Dã Viên để xem một cuộc đấu không tiền khóang hậu giữa voi và hổ. Đây có lẽ là trận đấu khủng khiếp và đẫm máu nhất trong lịch sử. Các khán giả đã chứng kiến từ lúc bắt đầu cho đến kết thúc, khi mà 40 con voi đã tàn sát đến con hổ cuối cùng trong số 18 con được thả ra làm vật tế thần trong ngày hội.
Đến thời các vua Nguyễn, người ta cũng thường tổ chức những cuộc đấu giữa voi và hổ và xem đó là những ngày hội lớn cho cả triều đình và dân chúng. Song trong giai đoạn đầu vì chưa có một đấu trường hẳn hoi để đảm bảo tính an toàn nên những sự cố vẫn thường xảy ra. Ví như dưới thời vua Gia Long, trong một trận đấu được tổ chức ở bãi đất trống phía trước Kinh Thành, giới hạn bằng một hàng rào lính tráng cầm khí giới đứng vòng quanh bảo vệ, một con hổ đã bứt được dây trói nhảy chồm lên tát người quản tượng rơi xuống đất và ông đã bị chính con voi do mình huấn luyện dẫm chết. Sự lồng lộn của con dã thú đã gây thương tích cho nhiều người và trở thành nỗi kinh hoàng cho tất cả khán giả. Thời Minh Mạng cũng từng xảy ra một sự cố tương tự. Nhân ngày lễ Tứ Tuần Đại Khánh (mừng thọ vua 40 tuổi vào năm 1829), vua ngự thuyền rồng xem một trận thư hùng giữa voi và hổ tổ chức ở bên bờ Bắc sông Hương. Trong khi giao đấu, chúa sơn lâm bứt được dây trói, lao ra và bơi về phía thuyền rồng. Giữa lúc quan binh nhốn nháo hoảng loạn, vua Minh Mạng kịp dùng con sào đẩy lùi được con vật cùng đường. Nhờ vậy, quan quân mới kịp chèo thuyền đến giết chết hổ giữa dòng sông cứu vua kịp thời.
Do những sự cố này, năm Minh Mạng thứ 11 (1830), vua Thánh tổ nhà Nguyễn đã chọn vùng đất ở thôn Trường Đá, làng Nguyệt Biều, nằm về phía Tây Kinh Thành, xây dựng một đấu trường kiên cố để tổ chức an toàn những cuộc đấu nói trên.
Hổ Quyền là một đấu trường lộ thiên hình vành khăn. Vòng thành trong cao 5,90m; vòng thành ngoài cao 4,75m. Thành ngoài nghiêng một góc khoảng 10-15o tạo thế vững chãi kiểu chân đê. Chu vi tường ngoài Hổ Quyền là 145m, đường kính lòng chảo là 44m.
Khán đài vua ngồi ở mặt Bắc của đấu trường, được xây cao hơn so với các vị trí chung quanh và cơi nới ra sau tạo một không gian tương đối rộng. Bên trái khán đài là hệ thống bậc cấp đi lên gồm 24 cấp dành cho vua và các quốc thích đại thần. Hai bên có hai hệ thống nữ tường xây bằng gạch hoa đúc rỗng. Bên phải khán đài có một hệ thống bậc cấp khác xây tương tự dành cho quan chức và binh lính. Từ khán đài này nhìn qua phía đối diện, người ta có thể nhận ra 5 chuồng cọp nằm ngay trong lòng đấu trường. Người ta lợi dụng hai vòng tường trong và ngoài của đấu trường để tạo ra vách chuồng. Giữa hai tường thành sẵn có, xây thêm các bức vách bằng gạch để tạo 5 cái chuồng riêng biệt. Hệ thống cửa ở các chuồng hổ là các cửa gỗ được đóng mở bằng cách kéo dây từ trên xuống. Từ khi xây xong Hổ Quyền, nghi thức tổ chức các trận quyết đấu sinh tử giữa voi và hổ trở nên trang trọng hơn trước.
Ngày đấu, dân chúng địa phương quanh vùng đặt hương án, lễ vật. Chung quanh đấu trường bày nghi trượng, cắm cờ dựng lọng. Một đội lính mặc áo đỏ đội nón sơn, cầm khí giới nghiêm trang cung kính đứng hai bên đường từ đấu trường đến bờ sông. Suốt trên đoạn đường này, người ta phải trải chiếu hoa để đón nhà vua. Từ sáng sớm, dân chúng được phép đã hăm hở vào đến nơi để chờ xem trận đấu giữa hai kỳ phùng địch thủ.
Thường thì đúng giờ Ngọ, vua mới ngự thuyền rồng đến. Khi thuyền áp sát bờ sông, vua lên kiệu che bốn lọng vàng và bốn tàn vàng. Đi trước là lính Ngự lâm quân, rồi Thị vệ cầm cờ Tam tài, cờ Ngũ hành, cờ Nhị thập bát tú, gươm tuốt trần; tiếp theo là đội nhạc cung đình. Các quan quỳ nghênh đón ở chiếu hoa trải trên đường rồi theo vua vào cổng giữa lên khán đài.
Dưới triều Nguyễn, những trận tử chiến giữa voi và hổ thông thường mỗi năm tổ chức một lần. Các vua Nguyễn là người tổ chức, cũng là người điều khiển, vừa là khán giả rất nhiệt tình cổ vũ cho trận đấu cho đến khi voi giết chết hổ mới thôi. Trận đấu cuối cùng của voi và hổ được tổ chức vào năm 1904 dưới triều vua Thành Thái. Đây cũng là một trận đấu hấp dẫn, đầy kịch tính được nhiều người đương thời chứng kiến và mô tả kỹ.
Có thể thấy việc tổ chức các cuộc huyết đấu giữa voi và hổ trước hết xuất phát từ nhu cầu rèn luyện tượng binh, một binh chủng rất lợi hại của quân đội xứ Đàng Trong, sau mới được nâng dần lên thành trò giải trí tiêu khiển. Xét trên nhiều mặt, đấu trường Hổ Quyền của nhà Nguyễn vẫn mang tính nhân đạo hơn những đấu trường nô lệ đẫm máu của các đế chế Phương Tây.
Phạm Thắng sưu tầm
Như ý nghĩa mà hai chữ Hổ Quyền bao hàm, đây thực sự là một chuồng nuôi hổ. Song bên cạnh đó, nó còn có chức năng của một đấu trường hết sức độc đáo mà theo sự hiểu biết của chúng tôi thì không hề có ở bất cứ nơi đâu trên thế giới: đấu trường của những cuộc tử chiến giữa voi và hổ.
Sự hình thành Hổ Quyền dưới triều Nguyễn có thể nói là hệ quả tất yếu của một loạt sự kiện xảy ra trong một quá trình lịch sử dài đến mấy trăm năm. Những trận đấu giữa voi và hổ được tổ chức sớm nhất có tư liệu ghi chép lại là vào thời các chúa Nguyễn (1558-1775). Tất nhiên không phải tổ chức ở Hổ Quyền vì bấy giờ công trình này chưa được xây dựng. Một học giả người Pháp là Pierre Poivre cho biết ông đã từng thấy những trận đấu giữa voi và hổ do chúa Nguyễn tổ chức ở đảo Dã Viên trên sông Hương. Ông cũng kể thêm là vào năm 1750, có một lần chúa Nguyễn Phúc Khoát cùng với triều thần đi trên 12 chiếc thuyền đến hòn Dã Viên để xem một cuộc đấu không tiền khóang hậu giữa voi và hổ. Đây có lẽ là trận đấu khủng khiếp và đẫm máu nhất trong lịch sử. Các khán giả đã chứng kiến từ lúc bắt đầu cho đến kết thúc, khi mà 40 con voi đã tàn sát đến con hổ cuối cùng trong số 18 con được thả ra làm vật tế thần trong ngày hội.
Đến thời các vua Nguyễn, người ta cũng thường tổ chức những cuộc đấu giữa voi và hổ và xem đó là những ngày hội lớn cho cả triều đình và dân chúng. Song trong giai đoạn đầu vì chưa có một đấu trường hẳn hoi để đảm bảo tính an toàn nên những sự cố vẫn thường xảy ra. Ví như dưới thời vua Gia Long, trong một trận đấu được tổ chức ở bãi đất trống phía trước Kinh Thành, giới hạn bằng một hàng rào lính tráng cầm khí giới đứng vòng quanh bảo vệ, một con hổ đã bứt được dây trói nhảy chồm lên tát người quản tượng rơi xuống đất và ông đã bị chính con voi do mình huấn luyện dẫm chết. Sự lồng lộn của con dã thú đã gây thương tích cho nhiều người và trở thành nỗi kinh hoàng cho tất cả khán giả. Thời Minh Mạng cũng từng xảy ra một sự cố tương tự. Nhân ngày lễ Tứ Tuần Đại Khánh (mừng thọ vua 40 tuổi vào năm 1829), vua ngự thuyền rồng xem một trận thư hùng giữa voi và hổ tổ chức ở bên bờ Bắc sông Hương. Trong khi giao đấu, chúa sơn lâm bứt được dây trói, lao ra và bơi về phía thuyền rồng. Giữa lúc quan binh nhốn nháo hoảng loạn, vua Minh Mạng kịp dùng con sào đẩy lùi được con vật cùng đường. Nhờ vậy, quan quân mới kịp chèo thuyền đến giết chết hổ giữa dòng sông cứu vua kịp thời.
Do những sự cố này, năm Minh Mạng thứ 11 (1830), vua Thánh tổ nhà Nguyễn đã chọn vùng đất ở thôn Trường Đá, làng Nguyệt Biều, nằm về phía Tây Kinh Thành, xây dựng một đấu trường kiên cố để tổ chức an toàn những cuộc đấu nói trên.
Hổ Quyền là một đấu trường lộ thiên hình vành khăn. Vòng thành trong cao 5,90m; vòng thành ngoài cao 4,75m. Thành ngoài nghiêng một góc khoảng 10-15o tạo thế vững chãi kiểu chân đê. Chu vi tường ngoài Hổ Quyền là 145m, đường kính lòng chảo là 44m.
Khán đài vua ngồi ở mặt Bắc của đấu trường, được xây cao hơn so với các vị trí chung quanh và cơi nới ra sau tạo một không gian tương đối rộng. Bên trái khán đài là hệ thống bậc cấp đi lên gồm 24 cấp dành cho vua và các quốc thích đại thần. Hai bên có hai hệ thống nữ tường xây bằng gạch hoa đúc rỗng. Bên phải khán đài có một hệ thống bậc cấp khác xây tương tự dành cho quan chức và binh lính. Từ khán đài này nhìn qua phía đối diện, người ta có thể nhận ra 5 chuồng cọp nằm ngay trong lòng đấu trường. Người ta lợi dụng hai vòng tường trong và ngoài của đấu trường để tạo ra vách chuồng. Giữa hai tường thành sẵn có, xây thêm các bức vách bằng gạch để tạo 5 cái chuồng riêng biệt. Hệ thống cửa ở các chuồng hổ là các cửa gỗ được đóng mở bằng cách kéo dây từ trên xuống. Từ khi xây xong Hổ Quyền, nghi thức tổ chức các trận quyết đấu sinh tử giữa voi và hổ trở nên trang trọng hơn trước.
Ngày đấu, dân chúng địa phương quanh vùng đặt hương án, lễ vật. Chung quanh đấu trường bày nghi trượng, cắm cờ dựng lọng. Một đội lính mặc áo đỏ đội nón sơn, cầm khí giới nghiêm trang cung kính đứng hai bên đường từ đấu trường đến bờ sông. Suốt trên đoạn đường này, người ta phải trải chiếu hoa để đón nhà vua. Từ sáng sớm, dân chúng được phép đã hăm hở vào đến nơi để chờ xem trận đấu giữa hai kỳ phùng địch thủ.
Thường thì đúng giờ Ngọ, vua mới ngự thuyền rồng đến. Khi thuyền áp sát bờ sông, vua lên kiệu che bốn lọng vàng và bốn tàn vàng. Đi trước là lính Ngự lâm quân, rồi Thị vệ cầm cờ Tam tài, cờ Ngũ hành, cờ Nhị thập bát tú, gươm tuốt trần; tiếp theo là đội nhạc cung đình. Các quan quỳ nghênh đón ở chiếu hoa trải trên đường rồi theo vua vào cổng giữa lên khán đài.
Dưới triều Nguyễn, những trận tử chiến giữa voi và hổ thông thường mỗi năm tổ chức một lần. Các vua Nguyễn là người tổ chức, cũng là người điều khiển, vừa là khán giả rất nhiệt tình cổ vũ cho trận đấu cho đến khi voi giết chết hổ mới thôi. Trận đấu cuối cùng của voi và hổ được tổ chức vào năm 1904 dưới triều vua Thành Thái. Đây cũng là một trận đấu hấp dẫn, đầy kịch tính được nhiều người đương thời chứng kiến và mô tả kỹ.
Có thể thấy việc tổ chức các cuộc huyết đấu giữa voi và hổ trước hết xuất phát từ nhu cầu rèn luyện tượng binh, một binh chủng rất lợi hại của quân đội xứ Đàng Trong, sau mới được nâng dần lên thành trò giải trí tiêu khiển. Xét trên nhiều mặt, đấu trường Hổ Quyền của nhà Nguyễn vẫn mang tính nhân đạo hơn những đấu trường nô lệ đẫm máu của các đế chế Phương Tây.
Phạm Thắng sưu tầm